Vào tháng 3 năm Sùng Trinh thứ 17 (1644), sự sợ hãi và tuyệt vọng của Hoàng đế Chu Do Kiểm (niên hiệu Sùng Trinh) không thể diễn tả bằng lời. Đại quân Đại Thuận của Lý Tự Thành đã bao vây thành Bắc Kinh.
Lúc đó hoàng đế Sùng Trinh không có bất kể một điều gì ở trong tay. Ngày 19/3/1644, Chu Do Kiểm đã tự kết thúc cuộc đời mình tại núi Vạn Thọ, nay là Cảnh Sơn, khi đó ông ta 34 tuổi. Cái chết của vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh khiến cho nhiều người đau lòng.
Vậy triều đại nhà Minh trong ngày cuối cùng và vị hoàng đế cuối cùng đã trải qua ngày đó như thế nào?
Sùng Trinh là ai?
Trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu Sùng Trinh là ai? Sùng Trinh là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh và nhà Minh thực tế đã sa sút từ thời ông nội của Sùng Trinh là Minh Thần Tông. Sùng Trinh chính là người đã diệt trừ thái giám nổi tiếng Ngụy Trung Hiền.
Để khắc phục những tệ nạn trước xảy ra ở các vua đời trước, vua Sùng Trinh đã có ý định thực hiện những cuộc cải cách quy hoạch nhân sự mới, đốc thúc bộ máy vận hành.
Ông được đánh giá là người chăm chú triều chính, thức khuya dậy sớm, tự mình xem văn bản vì sợ các quan sao nhãng không tâu báo hết. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách của Sùng Trinh lại không mang đến hiệu quả.
Để xây dựng đội ngũ nhân sự mới, Sùng Trinh không tự mình lựa chọn bổ nhiệm đại thần, cũng không nghe theo sự tiến cử của mọi người mà lại dùng một phương pháp rất kỳ lạ là bốc thăm. Ông ta tập hợp văn võ bá quan vào cung Càn Thanh, sai ghi họ tên từng người bỏ vào bình vàng rồi vái lạy trời xanh phù hộ và dùng đũa mà gắp thăm.
Tuy thanh trừng hoạn quan Ngụy Trung Hiền nhưng chỉ một năm sau, Sùng Trinh lại lập tức trọng dụng lực lượng hoạn quan khác trong triều mà không có cách bố trí nhân sự xứng đáng.
Việc sử dụng hoạn quan ngày càng có quy mô lớn, đến năm 1631, Sùng Trinh khôi phục lại chế độ giám quân do các thái giám đảm nhiệm, ở biên giới gọi là giám thị, trong các trấn nội địa thì gọi là giám quân. Các thái giám này có quyền hành rất lớn, được tham gia việc quân và được Sùng Trinh sử dụng làm mật thám trong quân đội.
Các quý tộc đại thần cùng nhau tích trữ của cải làm giàu, bóc lột dân chúng, Sùng Trinh không có biện pháp nào cải thiện được. Chi dùng trong hoàng gia mỗi năm là hơn 1 triệu lạng bạc trắng. Thuế thu ngày càng cao khiến nhân dân cơ cực, nhiều nơi bị đói kém, phải tha hương ăn thịt lẫn nhau. Quan lại địa phương không có cách cứu tế lại tăng cường trưng thu thuế khiến dân chúng không chịu nổi, nhiều nơi nổi dậy chống triều đình.
Sùng Trinh đứng trước tình hình đó không có biện pháp khắc phục. Trước những đề nghị tiếp tế cho những nơi bị đói, Sùng Trinh thậm chí thẳng thừng từ chối.
Sau đó ông ta lại ra lệnh bỏ các dịch trạm, mà người làm việc ở đây thì vốn là những người lương bổng thấp và nông dân nghèo. Những dịch trạm như thế bị giải thể khiến hàng vạn dịch tốt không còn đường sống, cũng nổi dậy chống triều đình khiến phong trào nông dân ngày càng mạnh
Để trấn áp các cuộc khởi nghĩa, Sùng Trinh lại cần có tiền, do đó lại ra lệnh tăng thêm thuế.
Trong lúc đó, tình hình triều Minh ngày càng nghiêm trọng, phía đông bắc cánh quân Thanh uy hiếp nặng nề, bên trong là quân khởi nghĩa của Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung ngày càng lớn mạnh. Lý Tự Thành nêu cao khẩu hiệu chia rộng đất cho dân cày, miễn nộp lương thực, không đi phu, khiến dân chúng nhiều nơi hưởng ứng.
Đầu năm 1644, Sấm vương Lý Tự Thành tự xưng là hoàng đế, đặt tên nước là Đại Thuận và chia quân làm hai đường tiến đánh Bắc Kinh. Lý Tự Thành viết thư cho Sùng Trinh ra tối hậu thư tới ngày 15/3 phải đầu hàng, đồng thời viết thông báo đi các nơi công bố tội trạng của vua quan nhà Minh.
Trong thành, một số thái giám báo tin ra ngoài cho quân Đại Thuận biết và hẹn ngày mở cổng thành. Thái giám Tào Hóa Thuần được sai giữ thành cho rằng nếu mà Ngụy Trung Hiền còn sống, có thể không xảy ra sự việc như vậy, Sùng Trinh trong lúc hoảng loạn đã nghe theo, lại sai người thu thập xác của Ngụy Trung Hiền để chôn cất.
Kinh thành lúc này cực kỳ nháo nhác, tới ngày 16 Sùng Trinh mới biết tin quân địch đã đến. Trưa ngày 16, quân Đại Thuận hoàn tất việc bao vây thành và bắt đầu tấn công.
Ngày cuối cùng của Sùng Trinh
Hai ngày sau, ngày 18 tháng 3, trong thời tiết xấu, sấm chớp, quân Đại Thuận đã mở cuộc tấn công vào thành Bắc Kinh. Quân Minh trấn giữ thành chỉ có hơn 10.000 người trong đó có cả thái giám, quân số thì ít, trang bị nghèo nàn, nhiều người còn bị bỏ đói. Họ không có sức và ý chí để chiến đấu.
Sùng Trinh ở bên trong Tử Cấm Thành không thể làm gì, lúc này Lý Tự Thành sai thái giám Du Tấn đến kinh thành để bàn việc hòa hoãn. Sùng Trinh và Ngụy Tào Đức gặp Du Tấn.
Du Tấn nói lại điều kiện của Lý Tự Thành: “Bàn khu tây bắc, chia nước cho vua, thưởng quân triệu bạc, lui về Hà Nam.”
Lúc này, Lý Tự Thành muốn ngồi ngang hàng với Sùng Trinh, nếu Sùng Trinh chấp nhận thì đây chính là con đường để cứu vãn cho triều Minh. Vào thời khắc quan trọng ấy, Sùng Trinh đã không biết đưa ra quyết định gì. Ông quay sang nói với Ngụy Tào Đức. Tuy nhiên, Ngụy Tào Đức chỉ cúi đầu mà không nói một lời.
Du Tấn trở về khi mà không thành công thuyết phục Sùng Trinh. Sau cùng, Sùng Trinh chỉ có một lựa chọn cuối cùng, đó là tự cầm quân để chiến đấu. Chiều hôm đó, kinh thành vỡ trận, Sùng Trinh đã khẩn cấp triệu các quan đại thần để hỏi về tình hình cuộc chiến bên ngoài, tuy nhiên họ chỉ xu nịnh và nói dối ông tình hình cuộc chiến.
Vào lúc hoàng hôn, hoàng đế cùng thái giám Vương Thừa Ân lên núi để quan sát tình hình. Sùng Trinh từ núi trở về cung Càn Khánh rồi gọi ba người con trai của ông là Thái tử Chu Từ Lãng, Định Vương Chu Từ Quýnh và Vĩnh Vương Chu Từ Chiếu.
Ông ra lệnh cho cả ba người phải lập tức rời hoàng cung lánh nạn, đích thân ông mặc lại y phục cũ cho các con mà khuyên nhủ. Ông hy vọng rằng các con của mình sẽ sống sót và khôi phục lại sự nghiệp cho nhà Minh. Sau khi từ biệt con trai mình, ông đã ra lệnh các phi tần của mình phải tự kết liễu cuộc đời.
Ông nói với Hoàng hậu Chu Thị hãy tự sát. Hoàng hậu Chu Thị là người chính trực, siêng năng, có tiết hạnh và rất hòa thuận với hoàng đế. Bà vừa khóc nói: “Thiếp hầu hạ bệ hạ 18 năm, điều gì cũng tuân lệnh, nay chết cùng thiên tử xã tắc, có hận chi đâu!“, rồi về cung Khôn Ninh và làm theo lời của hoàng đế.
Quý Phi Viên Thị dường như không nghe theo. Vì vậy Sùng Trinh đã tự tay rút kiếm chém vào vai Viên phi. Nhưng vết thương chỉ khiến nàng ngất đi (chưa chết).
Vào khoảng 9 giờ tối, Hoàng đế Sùng Trinh lấy tay áo che và vung kiếm chém hai công chúa. Trường Bình công chúa đã lớn, dùng tay đỡ kiếm nên chỉ bị chém vào cánh tay, bất tỉnh tại chỗ. Trong khi đó, công chúa Chiêu Nhân do còn nhỏ nên đã không qua khỏi.
Tối muộn ngày 18, sau khi giải quyết xong các công việc của hậu cung, Sùng Trinh trở về cung Càn Thanh và viết dụ chỉ.
11 giờ đêm, Sùng Trinh đến nhà cận thần Vương Thừa Ân đổi quần áo để chạy trốn khỏi kinh thành. Tuy nhiên các cổng phủ đều đã bị chặn, chỉ còn cổng Chánh Dương thì quân nhà Minh tưởng ông là địch nên đã tấn công. Sùng Trinh hoảng sợ quay lại mà không còn muốn trốn nữa. Trở lại cung, ông gióng chuông triệu tập các quan lại, nhưng không ai lên triều. Sùng Trinh hiểu ra ông chẳng còn một con đường nào khác.
Sùng Trinh thay quần áo, rồi cùng Vương Thừa Ân đi lên núi Vạn Thọ (nay là núi Cảnh Sơn) tới một cây hòe ở đình Thọ Hoàng và đã chấm dứt cuộc đời của vị vua cuối cùng nhà Minh. Vương Thừa Ân sau đó cũng làm theo. Vào lúc qua đời, hoàng đế Sùng Trinh mặc áo choàng dài tay màu xanh lam, quần màu đỏ, tóc xõa tung, một chân đi ủng và chân còn lại để trần. Trên 40 người nữa cũng làm theo những gì vua đã làm.
Rạng sáng ngày hôm sau tức 19 tháng 3, quân Đại Thuận chiếm được kinh thành, Lý Tự Thành nghênh ngang bước vào Tử Cấm Thành, chấp nhận sự đầu hàng của các quan đại thần, hoạn quan và gia đình bọn họ.
Quân dân Bắc Kinh nghênh đón vua Đại Thuận Lý Tự Thành. Lý Tự Thành tịch thu được từ kho riêng của Sùng Trinh đếm được 37 triệu lạng bạc, 1,5 triệu lạng vàng chứ không phải là đã hết như Sùng Trinh từng tuyên bố.
Lý Tự Thành treo thưởng 1 vạn lạng bạc cho ai tìm được Sùng Trinh. Vào thời điểm đó, cả bên trong và bên ngoài đều không biết tung tích của Sùng Trinh, người ta nghĩ rằng ông đã trốn thoát. Mãi đến ngày 22/3, người ta mới tìm thấy thi thể của Hoàng đế Sùng Trinh và Vương Thừa Ân.
Quân Đại Thuận đã mang quan tài, dựng thi thể Sùng Trinh và Chu Hậu ra ngoài đặt ở cửa Đông Quan để bêu trước dân chúng. Các quan lại nhà Minh không ai dám liếc nhìn, chỉ có một quan đó là Tương Thành bá Lý Quốc Trinh đã bôi bùn lên mặt đến trước xác Sùng Trinh mà khóc.
Lý Quốc Trinh bị quân Đại Thuận bắt đến nộp cho Lý Tự Thành. Lý Tự Thành dụ hàng, Quốc Trinh ra 3 điều kiện:
- Không được phá hoại các lăng tẩm vua nhà Minh
- Dùng nghi lễ Thiên tử mai táng Sùng Trinh
- Không làm hại Thái tử và Vĩnh vương, Định vương. Là ba người con trai của Sùng Trinh
Lý Tự Thành đã chấp nhận cả ba điều kiện. Nhưng lúc đó lăng mộ Sùng Trinh vẫn chưa khởi công, vì vậy Lý Tự Thành quyết định mang Sùng Trinh và Chu Hậu chôn vào khu mộ của Điền quý phi, người vợ thứ của ông đã qua đời năm 1642, táng ở huyện Xương Bình.
Sau này, khi nhà Thanh tiến vào Trung Nguyên, để lấy lòng người Hán, đã xây dựng kiến trúc trên phần mộ Điền quý phi, nâng cấp lên thành quy mô to lớn, đặt tên là Tư lăng. Ngoài ra, để biểu dương lòng trung nghĩa của Vương Thừa Ân (quan thái giám hầu cận đã tự vẫn cùng Sùng Trinh), hoàng đế Thuận Trị của nhà Thanh đã cho mai táng ông ngay tại lối vào Tư lăng để ông được mãi mãi yên nghỉ bên chủ nhân của mình.
Comments 3